DẤU HIỆU VỀ KHU LÒ SẢN XUẤT GỐM SỨ Ở KHU VỰC PHÍA TÂY THĂNG LONG QUA PHÁT HIỆN TẠI ĐỊA ĐIỂM KHẢO CỔ HỌC 62-64 TRẦN PHÚ, HÀ NỘI.
Hà Văn Cẩn
Lê Cảnh Lam
Viện Khảo cổ học
Địa điểm 62-64 Trần Phú, Hà Nội được Viện Khảo cổ học khai quật lần đầu tiên vào năm 2002 với tổng diện tích là 143,5m2 chia làm 3 hố.
Tại hố H2 và Hố H3 các đoàn khai quật đã phát hiện được móng kè hào thành Hà nội thời Nguyễn, Hố H1 và phần phía Tây của tương kè hào thành được lấp bằng đất trong đó chứa nhiều di vật của nhiều thời kỳ khác nhau. Nhưng đặc biệt chúng tôi chú ý đến một số chồng dính là phế phẩm của các lò nung gốm sứ có niên đại thể kỷ 14 -15 đặc biệt có một trồng dính còn dính một mảnh bát men thiên thanh có niên đại 11-12(1).
Thực hiện dự án khai quật khảo cổ học và di dời các di tích, di vật tại 62-64 Trần Phú nhằm giải phóng mặt bằng văn hoá để xây trụ sở làm việc Văn phòng Quốc hội, Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật đợt 2 từ tháng 3/2008 đến tháng 6/2009 với tổng diện tích 2626m2. Tầng văn hoá của khu vực này phát triển liên tục từ thời Lý đến hiện tại với độ sâu không đồng đều, trung bình 3,5m- 3,8m, các biệt có nơi sâu đến 5,5m Ngoài những phát hiện các di tích cư trú, mộ táng, móng tường thành và kè hào, móng đầm kiến trúc, ao hồ, lò luyện sắt, tiền cổ, đồ gỗ sơn mài, di cốt động vật...còn phải kể đến một khối lượng rất lớn các di vật liên quan đến việc sản xuất gốm sứ như các chồng dính, bao nung, nắp đậy bao nung, mảng thành lò, nút đậy mắt lò và đặc biệt là hiện tượng than tro dày đặc tạo thành cả lớp đất đen xám lẫn than tro phân bố khắp toàn di chỉ với độ dày lớp đất khoảng 25cm-35cm thuộc tầng văn hoá thời Trần- Lê, hiện tượng độ sâu của di tích thời Trần có độ chênh tới hơn 1m và có chỗ đến hơn 2m của hai vị trí khai quật cách nhau vài mét; hiện tượng lớp đất thịt sinh thổ cao thấp giật cấp như các đấu đào lấy đất làm gạch.
Về vấn đề phát hiện các di vật liên quan đến việc sản xuất gốm sứ ở lần khai quật thứ 2 này có điểm mới hơn so với đợt khai quật năm 2002 là việc đã phát hiện các mảnh bao nung phân bố không chỉ dưới lòng kè hào mà còn nằm ở phía trong kè hào trong nền đầm gạch ở hố 21 có niên đại từ thời Lê.
Ngoài những phát hiện về các phế phẩm và dụng cụ nung gốm được phát hiện trong hai đợt khai quật tại địa điểm 62-64 Trần Phú đã nêu ở trên. Chúng tôi còn phát hiện được các phế phẩm và dụng cụ nung gốm men ở một số địa điểm sau:
Năm 1998, trong đợt khai quật ở địa điểm khảo cổ học Hâu Lâu thuộc thành cổ Hà Nội, chúng tôi cũng đã phát hiện thấy một số trồng dính bát men nâu có niên đại khoảng thế kỷ 15(2)
Trong năm 2001, Viện Khảo cổ học phối hợp với Bảo Tàng Lịch sử Việt Nam điều tra một số địa điểm phía tây thành Thăng Long (Núi Cung, Núi Trúc, La thành ...) đã phát hiện được tại bờ sông Tô lịch (giáp đường Láng) một chồng dính bát men ngọc có niên đại thế kỷ 14.
Năm 2003, trong đợt khai quật khu vực lô D tại địa điểm 18 Hoàng Diệu chúng tôi cũng đã phat hiện thấy khá nhiều các phế phẩm của lò nung gốm sứ như bao nung, con kê các loại, có niên đại khoảng thế kỷ 15(3)
Tổng hợp những phát hiện như đã nêu ở trên, chúng tôi có nhận xét như sau:
1.Tuy chưa phát hiện được di tích lò nung gốm nhưng việc xuất hiện đầy đủ các yếu tố, hiện tượng có thể cho rằng ở khu vực phía tây Thăng Long đã có khu sản xuất gốm sứ.
2. Về mặt niên đại, dựa vào hiện vật đã được tìm thấychúng ta có thể cho rằng các lò gốm này có thể tồn tại từ thế kỷ 11 đến thế kỷ15.
3. Có thể nói các lò sản xuất gốm sứ tồn tại ở đây nhằm phục vụ nhu cầu sử dụng chủ yếu thành Thăng Long. Bao gồm gốm ngự dụng và cả gốm dân dụng.
4. Đến thế kỷ 16 các lò gốm ở đây có thể đã không còn sản xuất nữa do các khu vực sản xuất gốm khác đã phát triển mạnh như Bát Tràng và các trung tâm sản xuất gốm sứ ở Hải Dương. Việc này đã đẩy các lò gốm ở khu vực Thăng Long đến chỗ suy tàn.
Tài liệu tham khảo
1. Hà Văn Cẩn, Trần Anh Dung, Báo cáo kết quả khai quật địa điểm 62- 64 Trần Phú, Hà Nội, năm 2002.
2. Tống Trung Tín, Hà Văn Cẩn, Báo cáo kết quả khai quật địa điểm Hậu Lâu, Hà Nội, năm 1998.
3. Hà Văn Cẩn, Về các hiện vật liên quan đến lò nung gốm sứ tại hố khai quật D7 ở 18 Hoàng Diệu (Hà Nội) năm 2003. NPHM về KCH năm 2004, tr 501-505.