VÀI NHẬN XÉT VỀ CHẤT LIỆU ĐÁ Ở DI CHỈ LUNG LENG
Nguyễn Khắc Sử
Lê Cảnh Lam
(Viện Khảo cổ học)
Phan Thanh Toàn
(Đại học KHXH TP.HCM)
Khi chỉnh lý các hiện vật bằng đá các nhà khảo cổ học thường quan sát mặt ngoài của đá bằng mắt thường hoặc kính lúp. Nên việc xác định tên đá một cách khoa học là điều không thể thực hiện được, đôi khi không giống với cách gọi của các nhà địa chất. Khi chỉnh lý tư liệu di chỉ Lung Leng chúng tôi lựa chọn cách gọi tên đá theo truyền thống Khảo cổ học.
Chất liệu hiện vật đá ở Lung Leng được chia thành 10 loại bao gồm: opal, silex, phtanite, schiste, basalte, grese, granite, rhyolite, quartz, quartzite.
Đá opal: có nhiều màu, nhưng phổ biến nhất là màu gan gà, ngoài ra có đỏ tía, hồng phớt trắng, xanh xám, xanh ngọc, vàng nhạt. Đôi khi trên một hiện vật có nhiều màu từ đỏ tía nhạt dần đến hồng phớt. Quan sát bằng mắt thường ở các vết vỡ không thấy cấu trúc hạt. Vết vỡ sắc cạnh, các sóng vết ghè hình vỏ sò hoặc gần giống vết vỡ của thuỷ tinh. Loại đá này đa số được dùng để chế tạo rìu, hiếm khi được dùng để chế tạo bôn răng trâu. Đá opal được dùng làm nguyên liệu chế tạo rìu ở các công xưởng Chư Ktu (Đắc Lắc), Taiper (Gia Lai). Nghiên cứu thạch học lát mỏng cho thấy đá opal bên trong có màu xanh ngọc, có cấu trúc vi hạt ẩn tinh, có hàm lượng silic hoặc calchedoan cao từ 85% đến 97%, ngoài ra còn chứa sét hoặc fenpat. Các nhà địa chất thường gọi là “Đá ngọc bích” hoặc “Đá silic ngậm sét”.
Đá silex: hầu hết là màu trắng xám, đôi khi có màu xám xanh không có sự chuyển màu như đá opal. Vết vỡ không thấy cấu trúc hạt nhưng thấy có những ban tinh lấm tấm màu nâu xẫm. Vết ghè cũng có sóng vỡ kiểu vỏ sò. Độ phong hoá cao hơn so với đá opal nhưng lại thấp hơn so với đá phtanite. Đa số đá được dùng để chế tạo rìu có vai, bôn có vai. Thành phần khoáng vật trên lát mỏng có màu xám tro, kiến trúc ẩn tinh vi vảy, cấu tạo định hướng yếu. Thành phần silic trong khoảng từ 70% đến 90%, số còn lại là sét, sericit, felspat, epidot, tumalin và vật chất hữu cơ. Loại đá này được các nhà địa chất gọi là “Đá silex chứa sét”.
Đá phtanite: có màu trắng đục hay màu vàng nhạt, vỏ phong hoá xốp hơn đá silex. Đa số được dùng để chế tạo bôn răng trâu. Khi ghè có thể bóc ra những phiến tước nhỏ và dài. Phtanite có cấu trúc hạt hoặc bột, vết ghè không có dạng sóng vỏ sò. Thành phần khoáng vật trên lát mỏng cho thấy đá có màu xám đen, hàm lượng sét từ 7% đến 25%, silic từ 60% đến 90%, trong thành phần còn có quặng chiếm từ 1% đến 5% và ít hydroxit sắt. Loại đá này được các nhà địa chất gọi là “Đá silic chứa sét” hoặc “sét bột kết”, “sét cát kết”.
Đá schiste: gồm nhiều loại khác nhau như phiến thạch anh - mica, phiến thạch anh -sericit-chorit, phiến amphibol- felspat, phiến actinolit-albit, phiến tremont-tal, đá cát bột bị phiến hoá. Ở Lung Leng loại đá phiến actinolit -albit được dùng để làm rìu có vai và bôn vai xuôi, không dùng làm bôn răng trâu. Quan sát bề ngoài có màu lục xám, các hạt hình que (giống mỳ chính cánh) xếp định hướng xuôi theo chiều dọc của công cụ. Thành phần khoáng vật lát mỏng đá phiến actinolit -albit có màu đa sắc từ lục đến vàng nhạt gắn kết chắc, cấu tạo phiến, có kiến trúc que - hạt biến tinh, cấu tạo định hướng. Thành phần khoáng vật chủ yếu là actinolit (82% -85%), felspat (albit) khoảng 10%, thạch anh 5-6%, ngoài ra còn có một ít quặng và epidot + zoisit.
Đá basalte: bề ngoài công cụ có màu xám đen, đôi chỗ lấm tấm phản quang của thạch anh. Đá không phân phiến, mặt ngoài hơi bị rỗ bọt khí. Đá basalte thường được dùng để làm rìu mài lưỡi ở Lung Leng.
Đá grese: còn được gọi là sa thạch, trong một số tài liệu nước ngoài còn gọi là land-stone. Ở Lung Leng loại đá này chủ yếu dùng để làm bàn mài, bàn nghiền. Đá không phân phiến, thành phần khoáng vật lát mỏng thuộc loại biến chất, các hạt thạch anh dạng méo mó xen lẫn felspat, sericit, clorit, sét tàn dư, muscovit và quặng. Đá có kiến trúc biến dư cát -bột, có cấu tạo định hướng. Thành phần thạch anh chiếm từ 50% đến 70%, felspat, sericit hoặc muscovit chiếm từ 20% đến 25%. Các nhà địa chất gọi loại đá này là “cát bột bị phiến hoá” hoặc “đá granite biến chất”.
Đá granite: có màu vàng, đỏ, hoặc đen. Có nhiều cỡ hạt thô, trung, mịn. Mặt ngoài của công cụ đá này bị phong hoá do rửa trôi đi thành phần felspatkali để lại các hạt tinh thể thạch anh xù xì, màu sắc các tinh thể lốm đốm các màu khác nhau. Loại đá này được dùng khá phổ biến để làm bàn nghiền, chày nghiền, hòn nghiền. Thành phần khoáng vật lát mỏng có nhiều kiến trúc hạt nửa tự hình, phorphyr với nền vi tinh aplit, granophyr, có cấu tạo dạng khối, không phân phiến. Thành phần khoáng vật gồm fenspatkali hoặc plagicolaz chiếm 60% đến 70%, thạch anh chiếm 30%, còn lại là biotit, tremonit, muscovit, quặng và hydroxit sắt.
Đá rhyolite: khi đập vỡ thường tách thành các mặt phẳng chéo nhau tạo thành khối đa giác, phổ biến là màu đỏ và vàng nhạt. Bên ngoài có những tinh thể thạch anh nhô lên trên một nền màu của felzit, các tinh thể thạch anh bị vê tròn thành các góc tù. Đá rhyolite thường gặp trong công cụ đá văn hoá Hoà Bình. Ở Lung Leng đá rhyolit có dạng cuội được sử dụng làm chày nghiền, có 2 trường hợp được dùng làm bôn răng trâu và được dùng làm chiếc rìu nhỏ xíu. Thành phần khoáng vật lát mỏng thuộc loại phun trào axit gồm 2 phần rõ rệt là ban tinh và phần nền. Ban tinh là những hạt thạch anh, felspatkali và plagioclaz có hàm lượng tương đương nhau, đặc biệt các góc của các hạt này đều bị vê tròn. Phần nền chủ yếu là felspat dạng vi tinh, vi hạt, rải rác trong nền có ít quặng và hydroxit sắt. Ngoài ra, còn gặp ít epidot nhiệt dịch dạng vi mạch, đám ổ xuyên cắt. Loại đá này được các nhà địa chất gọi là “đá rhyolite”.
Đá quartz: ở Lung Leng hầu hết còn vỏ cuội thường được dùng làm công cụ ghè đẽo niên đại hậu kỳ đá cũ. Loại đá này còn được người hậu kỳ đá mới dùng làm hòn ghè, bàn mài và chày nghiền. Đá phổ biến có màu phớt hồng, trắng và vàng nhạt, không phân phiến, các tinh thể thạch anh méo mó, không đều, xếp với nhau thành dạng răng cưa. Thành phần khoáng vật lát mỏng có kiến trúc hạt lớn tha hình, có cấu tạo dạng khối, các tinh thể thạch anh xếp dạng răng cưa, thạch anh chiếm gần 100%, chứa rất ít quặng và hydroxit sắt. Loại đá này được các nhà đại chất gọi là “đá thạch anh” hoặc “đá thạch anh mạch”.
Đá quartzite: ở Lung Leng, ở dạng cuội được dùng để làm công cụ ghè đẽo, niên đại hậu kỳ đá cũ. Cả dân hậu kỳ đá mới dùng để làm bàn mài, chày nghiền, hòn nghiền. Đá quartzite dạng khối, gần giống với đá quartz, nhưng chỉ khác ở độ phong hoá của đá quartzite lớn hơn đá quartz vì thành phần thạch anh của đá quartzite ít hơn đá quartz một chút. Vết ghè trên công cụ đá quartzite có những sóng ghè nhỏ, đứt đoạn, gần song song. Thành phần khoáng vật lát mỏng có dạng khối không khác đá quartz. Điểm khác làcác tinh thể thạch anh trong đá quartzite có dạng biến tinh, không rời rạc như trong đá quartz. Thành phần khoáng vật thạch anh chiếm từ 93% đến 97%, thường lẫn thêm một ít zircon, muscovit, mica, sericit và hydroxit sắt. Các nhà địa chất gọi là “đá quartzite”.
x x
x
Kết quả chỉnh lý cho thấy, 3 loại đá opal, silex và phtanite chủ yếu để chế tác rìu và bôn đá mài toàn thân, 2 loại đá quartz và quartzite chủ yếu để chế tác công cụ ghè đẽo, các laọi đá còn lại thường được chế tác các loại di vật khác như bàn mài, hòn ghè, hòn nghiền, chày, bàn nghiền hoặc đồ trang sức. Rõ ràng mỗi loại hình di vật có một số loại đá nhất định. Nói cách khác, cư dân cổ Lung Leng có sự lựa chọn chất liệu đá cho việc gia công chế tác công cụ.
Hiện nay ở Kon Tum đã tìm thấy di chỉ xưởng chế tác rìu đá từ opal và silex như Bình Trung, ở Gia Lai có di chỉ công xưởng Ia mơ, Taiper...Rõ ràng loại đá này hiếm ở Kon Tum, nhưng lại phổ biến trong nhiều di chỉ. Điều này gợi hướng suy nghĩ về sự nảy sinh phân công lao động xã hội vào thời đại đá mới - sơ kỳ đồng thau.